Các loài và tiến hóa Côca_(cây)

Có 2 loài cây coca được trồng, mỗi loài có 2 giống:

  • Erythroxylum coca
    • Erythroxylum coca var. coca (Coca Bolivia hoặc Huánuco) – thích nghi tốt ở miền đông dãy Andes thuộc Peru và Bolivia, một khu vực ẩm ướt, khí hậu nhiệt đới, rừng trên núi.
    • Erythroxylum coca var. ipadu (Coca Amazon) – được trồng ở vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Amazon ở Peru và Colombia.
  • Erythroxylum novogranatense
    • Erythroxylum novogranatense var. novogranatense (Coca Colombia) – một giống cây thuộc địa hình cao được trồng ở những khu vực đồng bằng. Nó được trồng ở những vùng khô hơn ở Colombia. Tuy nhiên, E. novogranatense rất dễ thích nghi với những điều kiện sinh thái thay đổi. Các lá có những gân dọc song song 2 bên của gân giữa.
    • Erythroxylum novogranatense var. truxillense (Coca Trujillo) – mọc chủ yếu ở Peru và Colombia. Lá của E. novogranatense var. truxillense không có những đường gân song song như tất cả những giống khác.

Cả bốn giống coca đều được thuần hóa ở thời kỳ tiền Columbus và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau hơn các loài khác trong họ.[2]

Có 2 giả thuyết chính về sự tiến hóa của những giống cây coca được canh tác. Giả thuyết đầu tiên (do Plowman[7] và Bohm[8] đưa ra) cho rằng Erythroxylum coca var. coca là tổ tiên, còn Erythroxylum novogranatense var. truxillense được phát triển từ nó để chịu được hạn, và Erythroxylum novogranatense var. novogranatense hình thành từ Erythroxylum novogranatense var. truxillense.

Nghiên cứu gần đây dựa trên bằng chứng về di truyền (Johnson et al. in 2005,[9] Emche et al. in 2011,[10] và Islam 2011[11]) không ủng hộ thuyết tiến hóa tuyến tính này và thay vào đó cho rằng một sự kiện thuần hóa lần 2 đã tạo nên những giống Erythroxylum novogranatense. Chúng có thể có chung một tổ tiên nhưng vẫn chưa được khám phá.[10]

Những quần thể hoang dã của Erythroxylum coca var. coca được tìm thấy ở phía đông Andes; 3 giống kia chỉ được biết đến như là những cây canh tác.

Hai phân loài của Erythroxylum coca gần như không thể phân biệt được. Erythroxylum novogranatense var. novogranatense và Erythroxylum novogranatense var. truxillense có kiểu hình tương tự nhưng hình thái khác biệt. Trong bảng phân loại thực vật có hoa trong hệ thống Cronquist cũ, nó được xếp vào bộ Lanh; những hệ thống mới hơn xếp nó vào Bộ Sơ ri.